LILYA!
Thay cho bức thư
Khói thuốc làm cho đặc bầu không
khí.
Căn phòng –
cái đầu lâu nơi âm phủ.
Em còn nhớ
bên cửa sổ này
lần đầu
Anh điên cuồng ve vuốt đôi bàn tay.
Thế mà hôm nay ngồi đây
con tim trơ như sắt đá.
Ngày nữa
em đuổi ra
quở trách, biết đâu mà.
Trong phòng khách mờ tối
bàn tay gãy run lên không xỏ được áo
vào.
Anh chạy ra mau
đem xác thân anh quăng ngoài đường
phố.
Vẻ hoang dã
và cuồng điên
tuyệt vọng đến vô cùng.
Điều này thì không cần
em yêu ạ
em tốt quá
em hãy cho anh từ giã bây giờ.
Nhưng mà
tình yêu của anh –
một quả cân
quả cân nặng treo trên đầu em đó
dù em có chạy trốn xa gần.
Hãy cho anh tru lên trong tiếng kêu
cuối cùng
nỗi đắng cay của những điều hờn
giận.
Nếu người ta bắt con bò làm việc
nặng
thì nó bỏ đi
đắm mình trong nước lạnh.
Thiếu tình yêu của em
thì anh
không có biển
mà trong tình em không được nghỉ
ngơi.
Mong yên lặng, đã mệt mỏi con voi –
uy nghiêm nằm trên cát bỏng.
Thiếu tình yêu của em
thì anh
không có mặt trời
mà anh không biết em ở đâu và em ở
với ai.
Giá mà em làm khổ nhà thơ nào như
thế
thì thi sĩ
sẽ đổi em yêu lấy danh vọng và tiền
còn anh
không một tiếng vang nào vui sướng
ngoài tiếng vang của cái tên em.
Và anh sẽ không lao vào khoảng không
sẽ không uống vào thuốc độc
và cò súng vào thái dương không bóp.
Trên người anh
thiếu cái nhìn của em
không một lưỡi dao nào sắc được.
Ngày mai đây em sẽ quên
rằng anh đã đăng quang tên em
rằng tâm hồn nở hoa bằng tình yêu
anh đốt
và hội hoá trang của những ngày khó
nhọc
sẽ làm rối lên những cuốn sách của
anh…
Những chiếc lá khô của những lời anh
chăng
sẽ bắt buộc anh dừng lại
khao khát thở quá chừng?
Xin em hãy cho anh
dù, bằng vẻ dịu dàng cuối cùng sẽ
trải
bước chân đã đi khỏi của em*.
26-5-1916
___________
*Tên của bài thơ này trong nguyên
bản tiếng Nga là Lilychka – một cách gọi âu yếm tên Lilya, nhưng vì người Việt
Nam ta không có cách gọi như vậy nên chúng tôi để nguyên tên. Đây là Lilya
Yurievna Brick (1891 – 1978) – người tình, vợ của Maiakovsky. Tình yêu giữa
Maia và Lilya đã thay đổi cuộc đời của cả hai người. Lilya trở thành Nàng thơ
và là người dẫn đường của Maia trong nghiệp văn chương (tổ chức gặp gỡ, xuất
bản tác phẩm và giải quyết những vấn đề tài chính…). Sau cái chết của
Maikovsky, Lilya Brick trở thành người thừa kế chính thức của Maiakovsky.
Лиличка!
Вместо письма
Дым табачный воздух выел.
Комната -
глава в крученыховском аде.
Вспомни -
за этим окном
впервые
руки твои, исступленный, гладил.
Сегодня сидишь вот,
сердце в железе.
День еще -
выгонишь,
можешь быть, изругав.
В мутной передней долго не влезет
сломанная дрожью рука в рукав.
Выбегу,
тело в улицу брошу я.
Дикий,
обезумлюсь,
отчаяньем иссечась.
Не надо этого,
дорогая,
хорошая,
дай простимся сейчас.
Все равно
любовь моя -
тяжкая гиря ведь -
висит на тебе,
куда ни бежала б.
Дай в последнем крике выреветь
горечь обиженных жалоб.
Если быка трудом уморят -
он уйдет,
разляжется в холодных водах.
Кроме любви твоей,
мне
нету моря,
а у любви твоей и плачем не вымолишь
отдых.
Захочет покоя уставший слон -
царственный ляжет в опожаренном песке.
Кроме любви твоей,
мне
нету солнца,
а я и не знаю, где ты и с кем.
Если б так поэта измучила,
он
любимую на деньги б и славу выменял,
а мне
ни один не радостен звон,
кроме звона твоего любимого имени.
И в пролет не брошусь,
и не выпью яда,
и курок не смогу над виском нажать.
Надо мною,
кроме твоего взгляда,
не властно лезвие ни одного ножа.
Завтра забудешь,
что тебя короновал,
что душу цветущую любовью выжег,
и суетных дней взметенный карнавал
растреплет страницы моих книжек...
Слов моих сухие листья ли
заставят остановиться,
жадно дыша?
Дай хоть
последней нежностью выстелить
твой
уходящий шаг.
1916
BỨC
THƯ GỬI ĐỒNG CHÍ KOSTROV*
TỪ
PARIS NÓI VỀ BẢN CHẤT CỦA TÌNH YÊU
Cho
tôi
xin
lỗi,
đồng
chí Kostrov
với
một khoảng rộng bao la
rộng
mở trong hồn
rằng một
phần
cho
Paris đã viết những dòng
cho
thơ trữ tình
tôi
xài
rất hoang phí.
Xin
đồng chí
hãy
hình dung
một người
đẹp bước vô phòng
người
đẹp mặc áo lông
chuỗi
hạt cườm trên cổ.
Tôi
cầm
tay người đẹp đó
và
hỏi rằng:
–
tôi nói đúng
hay
là không đúng nhỉ? –
Tôi,
người đồng chí
đến
từ nước Nga
nổi
tiếng là một nhà thơ
tôi
từng thấy
những
thiếu nữ còn xinh hơn thế
tôi
từng thấy
những
thiếu nữ người thon hơn thế.
Các
cô gái
thường
rất yêu thi sĩ.
Tôi
thì thông minh
và
giọng oang oang thế
nói
nhảm những chiếc răng
nhưng
chỉ
em
nghe cho sẵn lòng.
Em
chớ nghĩ rằng
tôi
nói nhảm
đôi
chút tình cảm
của
kẻ qua đường.
Tôi
đây
muôn
thuở
đau
vì tình –
nhọc
nhằn đến thế.
Với
tôi
tình
yêu
không
đo bằng hôn lễ
tình
hết yêu –
tình
sẽ bơi đi.
Tôi,
đồng chí ạ
quả
thực là
nhỏ
nước bọt
lên
tận nóc.
Đi
sâu vào chi tiết làm gì
đôi
câu đùa cợt
tôi,
người đẹp ạ
không
phải hai mươi –
mà
là ba mươi…
có
lẻ.
Tình
yêu
không
phải là để cho
sôi
lên ầm ĩ
không
phải là để đốt
cháy
bằng than
mà
là thức dậy sau đồi ngực
trên
những
mái
tóc – rừng.
Yêu
–
có
nghĩa
là
vào giữa sân
chạy
và
đến đêm của quạ
lấp
loáng ánh rìu
giơ
lên chặt bổ
bằng
sức mạnh
của
mình–
những
kẻ yêu đương.
Yêu
–
đấy
là tấm vải trải giường
nhàu
nát vì
những
đêm không ngủ
giật
tung ra
với
Kopernik** ganh tỵ
với
ông ấy
chứ
không phải chồng của Mari Ivan
hãy
coi
là
tình địch của mình.
Với
chúng tôi
tình
yêu
không
phải vườn địa đàng
với
chúng tôi
tình
yêu
rú
lên tất cả
những
gì lại
làm
cho máy nổ
chiếc
máy
đã
ngủ yên ở giữa con tim.
Các
người
sợi
chỉ về Mạc Tư Khoa
đã
cắt.
Tháng
năm –
là
khoảng cách.
Biết
làm sao
giải
thích
cho
các người
rằng
đấy là khoảng cách?
Trên
mặt đất
của
ngọn lửa – đến bầu trời…
giữa
trời xanh
của
sao –
đến
quỉ.
Giá
mà tôi
đã
không là thi sĩ
thì
tôi có lẽ
đã
trở thành
một
vị chiêm tinh.
Quảng
trường ầm ĩ sôi lên
những
đoàn người di chuyển
tôi
bước đi
viết
những câu thơ vào quyển
sổ
ghi chép của mình.
Những
chiếc ô-tô
trên
đường phố
lao nhanh
chứ
không phải xếp hàng trên mặt đất.
Những
người thông minh
hiểu
biết:
con
người –
trong
sự phấn khích.
Một
đống hình
và
ý tưởng
chất
đầy
tận
nắp.
Giá
mà ở đây
và
ở những con gấu
có
những đôi cánh để mà bay.
Và
đây
với
quán ăn nào đó
rẻ
như bèo
khi
mà
cái
này sôi
từ
cổ hầu
đến
những ngôi sao
lời
vút lên
thành
mạ vàng một ngôi sao chổi.
Và
đuôi
cắt
bầu
trời làm ba phần
ánh
lên
và
cháy bộ lông chim
để
cho hai kẻ yêu nhau
vào
những ngôi sao sẽ ngắm
và
những cuộc chuyện trò
của
họ trở nên màu tím.
Để
nâng lên
để
dắt dìu
và
lôi cuốn
bằng
mắt nhìn đã mệt mỏi những ai.
Để
những cái đầu
hận
thù
cưa
đổ xuống bờ vai
bằng
thanh kiếm
có
chuôi dài tỏa sáng.
Tự
mình, trong lồng ngực
đến
tiếng gõ của ngày cuối tận
như
đến cuộc hẹn hò
đứng
lặng
rồi
lắng tai nghe:
tình
yêu gào lên
tình
yêu đơn giản
của
người trần.
Bão
giông,
lửa,
nước
có
mặt trong tiếng thì thầm.
Ai
có khả năng
kìm
nén được lòng?
Có
thể, đồng chí?
Đồng
chí hãy thử xem…
1928
_____________
*Kostrov (Cô-xtrốp) – biên tập viên
báo “Sự thật Thanh niên” thời bấy giờ.
**Kopernik, Nikolai (Copernicus,
Nikolaus)(1473 – 1543) – nhà thiên văn học Ba Lan.
Письмо товарищу Кострову
из Парижа о сущности любви
Простите
меня,
товарищ Костров,
с присущей
душевной ширью,
что часть
на Париж отпущенных строф
на лирику
я
растранжирю.
Представьте:
входит
красавица в зал,
в меха
и бусы оправленная.
Я
эту красавицу взял
и сказал:
- правильно сказал
или неправильно? -
Я, товарищ,-
из России,
знаменит в своей стране я,
я видал
девиц красивей,
я видал
девиц стройнее.
Девушкам
поэты любы.
Я ж умен
и голосист,
заговариваю зубы -
только
слушать согласись.
Не поймать меня
на дряни,
на прохожей
паре чувств.
Я ж
навек
любовью ранен -
еле-еле волочусь.
Мне
любовь
не свадьбой мерить:
разлюбила -
уплыла.
Мне, товарищ,
в высшей мере
наплевать
на купола.
Что ж в подробности вдаваться,
шутки бросьте-ка,
мне ж, красавица,
не двадцать,-
тридцать...
с хвостиком.
Любовь
не в том,
чтоб кипеть крутей,
не в том,
что жгут угольями,
а в том,
что встает за горами грудей
над
волосами-джунглями.
Любить -
это значит:
в глубь двора
вбежать
и до ночи грачьей,
блестя топором,
рубить дрова,
силой
своей
играючи.
Любить -
это с простынь,
бессоннницей
рваных,
срываться,
ревнуя к Копернику,
его,
a не мужа Марьи Иванны,
считая
своим
соперником.
Нам
любовь
не рай да кущи,
нам
любовь
гудит про то,
что опять
в работу пущен
сердца
выстывший мотор.
Вы
к Москве
порвали нить.
Годы -
расстояние.
Как бы
вам бы
объяснить
это состояние?
На земле
огней - до неба...
В синем небе
звезд -
до черта.
Если бы я
поэтом не был,
я б
стал бы
звездочетом.
Подымает площадь шум,
экипажи движутся,
я хожу,
стишки пишу
в записную книжицу.
Мчат
авто
по улице,
а не свалят наземь.
Понимают
умницы:
человек -
в экстазе.
Сонм видений
и идей
полон
до крышки.
Тут бы
и у медведей
выросли бы крылышки.
И вот
с какой-то
грошовой столовой,
когда
докипело это,
из зева
до звезд
взвивается слово
золоторожденной кометой.
Распластан
хвост
небесам на треть,
блестит
и горит оперенье его,
чтоб двум влюбленным
на звезды смотреть
их ихней
беседки сиреневой.
Чтоб подымать,
и вести,
и влечь,
которые глазом ослабли.
Чтоб вражьи
головы
спиливать с плеч
хвостатой
сияющей саблей.
Себя
до последнего стука в груди,
как на свидание,
простаивая,
прислушиваюсь:
любовь загудит -
человеческая,
простая.
Ураган,
огонь,
вода
подступают в ропоте.
Кто
сумеет совладать?
Можете?
Попробуйте....
1928
BỨC
THƯ GỬI TATYANA YAKOVLEVA
Trong
nụ hôn lên bàn tay
hay
bờ môi
trong
cơn run thân thể
những
người gần gũi thế
màu
đỏ thắm
của
những nước
cộng hòa
của tôi
cũng
cần phải
bừng
lên
như lửa
cháy.
Tôi
không thích
tình
yêu theo kiểu Paris:
đem
trang điểm người ta
bằng
nhung lụa
tôi
dún người, chớp mắt
nói
tubo*
–
bằng
vẻ say mê
phát
khùng với chó.
Chỉ
một mình em
là
cao bằng tôi thôi
em
hãy đứng lại gần đây
ngang
tầm mắt
em
hãy để cho
về
cái buổi
chiều này
kể những
lời
rất chân
tình, thân mật.
Năm
giờ
và
từ lúc ấy
rừng
thông
mơ
màng
của những
câu thơ
thành
phố trở nên
im
ắng, hoang vu
chỉ
còn nghe
có
mỗi
tiếng
còi tàu đi Barcelona.
Giữa
trời đen
dáng
đi của sấm
chớp
chửi
nhau trong
vở
kịch bầu trời
không
phải cơn giông
mà
đấy là
chỉ đơn
giản
sự
ghen tuông đang chuyển động sau đồi.
Em
hãy chớ tin
dại
dột những lời
đừng
nhầm lẫn
sự
lung lay, giũ xóc
tôi
thắng cương
tôi
kìm lòng
kẻ
có dòng quí tộc.
Cơn
đam mê
như
vảy kết trên da
nhưng
niềm vui
không
hề khô cạn
sẽ
rất lâu
và
sẽ rất đơn giản
tôi
trò chuyện bằng thơ.
Sự
ghen tuông
những
người vợ
những
dòng nước mắt…
những
mí mắt sưng
vừa
vặn với Vio.
Tôi
không tự mình
mà
tôi
ghen
tỵ cho
nước
Nga Xô Viết.
Những
miếng vá trên vai
tôi
đã nhìn
và
hơi thở
của
bệnh
ho,
lao phổi.
Nhưng
dù sao
chúng
tôi đâu có lỗi
khi
nhọc nhằn
cả
một trăm triệu dân.
Chúng
tôi
bây
giờ
sẽ
rất mực dịu dàng
Với
môn thể thao
uốn
thẳng cho một số
những
người như em
ở
Mạc Tư Khoa rất cần
những
cô gái chân dài
không
hề đủ.
Không
phải em
vào
tuyết
và
khói sương
từng
đi qua
bằng
những bàn chân đó
ở
đây người ta
ve
vuốt
mơn
man
đem
vào bữa ăn
của
những vua dầu mỏ.
Em
đừng nghĩ rằng
nheo
mắt đơn giản thế
cái
nheo mắt này
uốn
thẳng những vòng cung.
Em
hãy đi lại đây
hãy
ngã vào lòng
ngã
vào vòng tay của tôi
to
rộng và thô kệch.
Em
không muốn ư?
Thì
đứng đó mà chịu rét
và
điều này
là
sự sỉ nhục
cho
cả hai người.
Dù
sao
thì
tôi
cũng
sẽ có lúc
đem
theo em chỉ một
hoặc
cả hai người với Paris.
1928
____________
*Dừng lại, chớ động vào.
Письмо Татьяне Яковлевой
В поцелуе рук ли,
губ ли,
в дрожи тела
близких мне
красный
цвет
моих республик
тоже
должен
пламенеть.
Я не люблю
парижскую любовь:
любую самочку
шелками разукрасьте,
потягиваясь, задремлю,
сказав -
тубо -
собакам
озверевшей страсти.
Ты одна мне
ростом вровень,
стань же рядом
с бровью брови,
дай
про этот
важный вечер
рассказать
по-человечьи.
Пять часов,
и с этих пор
стих
людей
дремучий бор,
вымер
город заселенный,
слышу лишь
свисточный спор
поездов до Барселоны.
В черном небе
молний поступь,
гром
ругней
в небесной драме,-
не гроза,
а это
просто
ревность двигает горами.
Глупых слов
не верь сырью,
не путайся
этой тряски,-
я взнуздаю,
я смирю
чувства
отпрысков дворянских.
Страсти корь
сойдет коростой,
но радость
неиссыхаемая,
буду долго,
буду просто
разговаривать стихами я.
Ревность,
жены,
слезы...
ну их! -
вспухнут веки,
впору Вию.
Я не сам,
а я
ревную
за Советскую Россию.
Видел
на плечах заплаты,
их
чахотка
лижет вздохом.
Что же,
мы не виноваты -
ста мильонам
было плохо.
Мы
теперь
к таким нежны -
спортом
выпрямишь не многих,-
вы и нам
в Москве нужны
не хватает
длинноногих.
Не тебе,
в снега
и в тиф
шедшей
этими ногами,
здесь
на ласки
выдать их
в ужины
с нефтяниками.
Ты не думай,
щурясь просто
из-под выпрямленных дуг.
Иди сюда,
иди на перекресток
моих больших
и неуклюжих рук.
Не хочешь?
Оставайся и зимуй,
и это
оскорбление
на общий счет нанижем.
Я все равно
тебя
когда-нибудь возьму -
одну
или вдвоем с Парижем.
1928
GIÃ
BIỆT
Trong
máy đổi tiền
tôi
đổi đồng franc cuối.
Đến
mấy giờ tôi có mặt ở Mác-xây? –
Paris
chạy
ra
để
tiễn đưa tôi
trong
tất cả vẻ tuyệt vời
không
chịu nổi.
Những
giọt lệ biệt ly
hãy
trào
lên
khóe mắt
Lòng
đa cảm
trong
tim
hãy
sôi lên dào dạt!
Tôi
muốn giá mà
được
sống và
được
chết ở Paris
giá
như không có trên đời
miền
đất ấy –
Moskva.
1925
Прощанье
В авто,
последний франк разменяв.
— В котором часу на Марсель?—
Париж
бежит,
провожая меня,
во всей
невозможной красе.
Подступай
к глазам,
разлуки
жижа,
сердце
мне
сантиментальностью расквась!
Я хотел бы
жить
и умереть в Париже,
если 6 не было
такой
земли —
Москва.
BÀI
THƠ VIẾT DỞ
I
Yêu?
không yêu? tôi làm hỏng bàn tay
những
ngón trên bàn tay này gập lại
để
đoán xem trong tháng năm này
những
vành hoa nở từ hoa cúc dại
Mặc
cho râu tóc sợi bạc sẽ tìm ra
Dù
ánh bạc tháng năm có nhiều vô thiên lủng
tôi
hy vọng và tin rằng muôn đời không đến
cùng
với tôi sự thận trọng xấu xa
II
Đã
bước sang giờ thứ hai
em
cần phải đi nằm
Mà
có thể
em
là như thế
Anh
không vội vàng
bằng
những bức điện khẩn
để
đánh thức em
và
làm em lo lắng
chẳng để
làm chi
III
biển
đi giật lùi
biển
đi ngủ
Như
người ta thường nói: vụ rắc rối qua mau
con
thuyền tình đã vỡ ra tan tác
Ta
đã không còn mắc nợ gì nhau
Và
cũng chẳng cần chi danh mục
của
những giận hờn và bất hạnh, đớn đau
IV
Đã
sang giờ thứ hai, em phải đi nằm
Dải
Ngân hà trong đêm ngời Con mắt bạc
Anh
không vội vàng bằng những bức điện hỏa tốc
Để
đánh thức em và làm em lo lắng chẳng làm chi
như
người ta thường nói: vụ rắc rối qua đi
con
thuyền tình đã vỡ ra tan tác
Ta
hết nợ nần nhau và chẳng cần chi danh mục
của
những đớn đau, bất hạnh, những giận hờn
Em
hãy xem trong đời gió lặng trời yên
Đêm
đặt lên giữa trời những vì sao xa thẳm
trong
giờ thế này em hãy thức dậy, trong thầm lặng
nói
cho hoàn vũ và những thế kỷ cuộc đời kia
khi
in ra sẽ không cần những dấu chấm
như
ở trong quyển sổ của Maiakovsky
1928-1930
Неоконченное
I
Любит? не любит? Я руки ломаю
и пальцы разбрасываю разломавши
так рвут загадав и пускают по маю
венчики встречных ромашек
Пускай седины обнаруживает стрижка и
бритье
Пусть серебро годов вызванивает уймою
надеюсь верую вовеки не придет
ко мне позорное благоразумие
II
Уже второй
должно быть ты легла
А может быть
и у тебя такое
Я не спешу
и молниями телеграмм
мне незачем
тебя
будить и беспокоить
III
море уходит вспять
море уходит спать
Как говорят инцидент исперчен
любовная лодка разбилась о быт
С тобой мы в расчете
И не к чему перечень
взаимных болей бед и обид.
IV
Уже второй должно быть ты легла
В ночи Млечпуть серебряной Окою
Я не спешу и молниями телеграмм
Мне незачем тебя будить и беспокоить
как говорят инцидент исперчен
любовная лодка разбилась о быт
С тобой мы в расчете и не к чему
перечень
взаимных болей бед и обид
Ты посмотри какая в мире тишь
Ночь обложила небо звездной данью
в такие вот часы встаешь и говоришь
векам истории и мирозданью
печатается без знаков препинания,
как
в записной книжке Маяковского
1928-1930
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét